GIS được du nhập về Việt Nam từ năm của thập niên 80, thông qua các dự án trong khuôn khổ hợp tác quốc tế. Tuy nhiên các giới khoa học cũng như những người áp dụng hệ thống thông tin địa lý tại Việt Nam chỉ đến các năm cuối của thập niên 90.
GIS được du nhập vào thế giới từ những năm
Hệ thống thông tin địa lý (Geographic Information System – gọi tắt là GIS) được hình thành vào những năm 1960 và phát triển rất rộng rãi trong 10 năm lại đây. Hệ thống thông tin địa lý ngày nay là công cụ trợ giúp quyết định trong nhiều hoạt động kinh tế – xã hội, quốc phòng của nhiều quốc gia trên thế giới.
Có khả năng trợ giúp các cơ quan chính phủ, các nhà quản lý, các doanh nghiệp, các cá nhân… đánh giá được hiện trạng của các quá trình, các thực thể tự nhiên, kinh tế – xã hội thông qua các chức năng thu thập, quản lý, truy vấn, phân tích và tích hợp các thông tin được gắn với một nền hình học (bản đồ) nhất quán trên cơ sở toạ độ của các dữ liệu đầu vào.
GS.Roger Tomlinson là ngưòi xây dựng hệ thống thông tin địa lý đầu tiên trên thế giới. Đó là hệ thống thông tin địa lý của quốc gia Canada (Canada Geography Information System). Ngaòi ra, ông còn đuợc biết đến như là ngưòi đầu tiên đưa ra thuật ngữ gis.
GIS được hình thành từ các ngành khoa học: Địa lý, Bản đồ, Tin học và Toán học. Nguồn gốc của GIS là việc tạo các bản đồ chuyên đề, các nhà quy hoạch sử dụng phương pháp chồng lắp bản đồ (Overlay), phương pháp này được mô tả một cách có hệ thống lần đầu tiên bởi Jacqueline Tyrwhitt trong quyển sổ tay quy hoạch vào năm 1950, kỹ thuật này còn được sử dụng trong việc tìm kiếm vị trí thích hợp cho các công trình được quy hoạch.
GIS được du nhập vào Việt Nam
Mặc dù đuợc biết đến từ khá sớm, nhưng mãi đến sau năm 2000, tức sau khi có những kết quả đầu tiên về việc tổng kết chuơng trình GIS quốc gia tại Việt Nam, GIS mới thực sự được chú ý đến và buớc đầu phát triển.
Gis ngày càng đuợc áp dụng trong các lĩnh vực: quản lý tài nguyên rừng; tài nguyên đất; tài nguyên nuớc; quản lý và giám sát môi truờng; quy hoạch thiết kế cảnh quan đô thị… hàng loạt chuơng trình GIS với sự tham gia của nhiều trừơng Đại học, các viện nghiên cứu, các chuyên gia trong và ngoài nứoc đuợc triển khai.
Trong đó tiêu biểu phải kể đến dự án quản lý nuớc sạch ở Hà Nam, dự án quản lý nuớc ở Hòa Bình, dự án thử nghiệm trong quản lý khách du lịch ở động Phong Nha.
Ứng dụng của hệ thống thông tin địa lý trong thực tế
Một số dự án ứng dụng GIS đã thành công như Ủy ban nhân dân quận Gò Vấp, Sở Khoa học Công nghệ Đồng Nai, Ửy ban nhân dân thành phố Đà Lạt, Sở Y tế Quảng Trị…
Các ứng dụng GIS được triển khai ở tất cả các lĩnh vực giám sát tài nguyên thiên nhiên và môi trường (thí dụ: giám sát sự biến động đa dạng sinh học bằng kết hợp các dữ liệu RS và quan sát của cộng đồng trong dự Hành Lang Xanh, Thừa Thiên Huế),
- Phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai,
- Phát triển nông nghiệp và nông thôn (trồng trọt và phòng trừ dịch bệnh) phát triển du lịch,
- Quản lý đô thị (thí dụ điển hình là quận Gò Vấp “muốn quản lý từng căn nhà, từng hộ gia đình” trong quận),
- Quản lý quy hoạch và đầu tư
- (Nguyễn Bình – Việt Kiều Canađa – chuyên gia tư vấn GIS cho HCMC “GIS là công cụ cho phép lựa chọn phương án đầu tư”, quy hoạch nuôi trồng thủy sản (dự án IMOLA, Thừa Thiên Huế).
Thực tế phát triển trong các dự án
Song một thực tế mà ai cũng phải thừa nhận đó là hệ thống thông tin trắc địa mặc dù có mặt ở Việt Nam khá sớm nhưng vẫn chỉ mới là đứa trẻ vừa bước vào giai đoạn lẫm chẫm đi, đi mãi mà vẫn chưa rời xa vạch xuất phát đuợc bao xa. Hầu hết các dự án còn quá sơ khai, ở những buớc thử nghiệm đầu tiên hoặc quy mô còn quá nhỏ hẹp hoặc chỉ là hình thức tuơng tự GIS.
Những ghi chép cho thấy GIS xuất hiện sớm nhất ở TP.HCM. Hệ thống thông tin địa lý GIS đuợc du nhập vào Việt Nam trong những năm của thập niên 80 thông qua các dự án trong khuôn khổ hợp tác quốc tế.
Source: Wikipedia, ungdunggis
Ngọc Hiền